Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính
sách (VEPR) trực thuộc Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội vừa công bố
sáng 17/5 Báo cáo thường niên về Kinh tế Việt Nam năm 2011. Với tiêu
đề: Nền kinh tế trước ngã ba đường, bên cạnh việc khái quát thực trạng nền sản
xuất, thương mại và tài chính Việt Nam sau năm 2010, Báo cáo cũng phác họa một
số nét chính về viễn cảnh kinh tế năm 2011.
Theo đánh giá của Tiến sĩ Nguyễn Đức
Thành (chủ biên báo cáo) và các đồng sự, diễn biến kinh tế thế giới, hơn lúc
nào hết, sẽ ảnh hưởng mạnh tới Việt Nam trong năm nay. Các vấn đề này bao gồm
bất ổn của kinh tế Mỹ (thất nghiệp cao, thâm hụt ngân sách lớn…), khủng hoảng
nợ châu Âu, bất ổn vĩ mô tại Trung Quốc, việc tăng giá lương thực trên phạm vi
toàn cầu…
Bên cạnh những yếu tố bên ngoài như
vậy, bản thân kinh tế Việt Nam cũng tồn tại rất nhiều bất ổn mang tính hệ thống
như tình trạng lạm phát gia tăng, kéo theo lãi suất cao, gây bất lợi cho tăng
trương kinh tế cũng như mức độ ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng, các
thị trường tài sản.
Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng việc
lạm dụng các biện pháp hành chính để kiểm soát giá và các yếu tố khác trong
thời kỳ kinh tế suy thoái và khó khăn sẽ để lại hậu quả lâu dài trong những năm
tới. Biểu hiện dễ thấy nhất là sự điều hành giật cục giá những mặt hàng thiết
yếu như điện, xăng dầu… gây ảnh hưởng tới sản xuất, đời sống xã hội cũng như kỳ
vọng về tương lai kinh tế.
Theo báo cáo của VEPR, thâm hụt ngân
sách của Việt Nam
hiện còn lớn, chi thường xuyên tăng và đang ở mức cao. Trong khi đó, đầu tư
phát triển lại có xu hướng giảm sẽ có ảnh hưởng nhất định tới tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn. Rủi ro ngân sách cũng là một vấn đề lớn khi hàng
loạt tập đoàn kinh tế (bao gồm cả EVN, Petrolimex, PetroVietnam…) đang bộc lộ
không ít khó khăn về tài chính.
Những khúc mắc nói trên gây ảnh hưởng
không nhỏ tới việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát - ổn định vĩ mô được
Chính phủ đặt ra cho 2011. So sánh với một giai đoạn khó khăn khác là năm 2008, các
nhà nghiên cứu cho rằng kinh tế Việt Nam hiện ở trong tình thế bất lợi
hơn nhiều.
Nguyên nhân là do tại thời điểm 2008,
ngân sách của Việt Nam chưa bị thâm hụt quá sâu, do đó chính sách tài khóa còn có
khả năng linh hoạt trong việc thay đổi mức thu chi. Mặt khác, lãi suất tại thời
điểm này vẫn chưa cao, dư địa tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát vẫn còn. Đồng
thời, dự trữ ngoại hối khi đó đang ở đỉnh điểm nên khả năng can thiệp thị
trường là khả thi. Tâm lý doanh nghiệp và người dân khi đó vẫn còn tương đối
lạc quan.
Những điều kiện này, theo VEPR, gần
như không còn trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, báo cáo cho rằng mức độ thành
công của các chính sách kiềm chế lạm phát sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự quyết
liệt trong thực thi các biện pháp đã được đề ra, đặc biệt là các công cụ được
đề cập tại Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành và
các cộng sự đưa ra 2 kịch bản cho kinh tế Việt Nam trong năm nay. Ở kịch bản “tích cực”, các biện pháp thắt chặt tổng cầu
được duy trì đến hết năm, lạm phát sẽ ở mức 15,5% trong khi tốc độ tăng GDP là
6,18%. Trong khi đó, nếu sớm nới lỏng tiền tệ vào khoảng quý III, tăng trưởng
có thể nhích lên một chút, khoảng 6,55%. Tuy nhiên, tốc độ tăng CPI khi đó sẽ ở
mức 18,2%, tức là gấp rưỡi năm 2010.
Như vậy, trong cả 2 kịch bản, lạm
phát năm 2011 đều được dự kiến ở mức cao hơn 2 lần so với mục tiêu được Quốc
hội phê duyệt cuối năm ngoái. Các con số này cũng cao hơn nhiều so với mức
“phấn đấu” được Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Võ Hồng Phúc thông báo tại Hội nghị thường niên ADB đầu tháng 5 vừa qua.
Theo VEPR, công chúng thường có
khuynh hướng lưu giữ ấn tượng về lạm phát trong quá khứ, đồng thời có kỳ vọng
nhạy cảm về lạm phát trong tương lai. Do đó, để chống lạm phát hiệu quả, các
nhà nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần tăng uy tín trong việc cam kết chống lạm
phát, mà trước hết phải giữ được mức trượt giá thấp trong vòng ít nhất là 6
tháng nhằm lấy lại niềm tin của thị trường.
Ngoài ra, Báo cáo cũng đề xuất cơ
quan quản lý cần xây dựng các giải pháp bình ổn vĩ mô với mục tiêu lạm phát rõ
ràng để tăng hiệu quả cho các chính sách kèm theo. Về dài hạn, cần khuyến khích
tăng trưởng kinh tế thông qua gia tăng năng suất lao động và tăng sản lượng.
Điều này phụ thuộc rất lớn vào việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng, vốn là một
bài toán lớn và không dễ giải của kinh tế Việt Nam.
Nguồn VN-Express
Nhật Minh